Sunday, December 31, 2000

Hoài sơn: Thuốc bổ ngũ tạng

Theo Đông y, hoài sơn vị ngọt hơi đắng, tính bình; vào kinh tỳ, phế, thận và vị. Có tác dụng ích khí dưỡng âm, kiện tỳ, bổ phế thận, sinh tân. Y học cổ truyền dùng làm thuốc bổ ngũ tạng, mạnh gân xương, chữa suy nhược cơ thể, bệnh đường ruột, tiêu chảy, lỵ, đái tháo đường, bổ thận; chữa đau lưng, hoa mắt chóng mặt… Liều dùng: 12 - 63g. Xin giới thiệu một số bài thuốc có hoài sơn:

Kiện tỳ, cầm tiêu chảy. Trị chứng tỳ hư, tiêu chảy, kém ăn, người mệt

Hoài sơnHoài sơn dưỡng âm kiện tỳ bổ phế thận. Trị suy nhược cơ thể, bệnh đường ruột, tiêu chảy, đái tháo đường…

Bài 1: sơn dược 63 - 125g, gạo nếp, lượng vừa đủ, sao hơi vàng. Sắc uống.

Bài 2: Phì nhi hoàn: hoài sơn 60g, phục linh 45g, bạch biển đậu sao 45g, sơn tra 45g, thần khúc 45g, đương quy 45g, bạch truật sao 30g, trần bì 30g, sử quân tử 30g, hoàng liên 20g, cam thảo 20g. Các vị tán bột mịn, làm hoàn mật, viên bằng hạt đậu xanh. Ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 3 - 4g. Tác dụng kiện tỳ tiêu thực. Dùng cho trẻ em gầy yếu.

Bài 3: Cốm bổ sâm hoài: hoài sơn 100g, đảng sâm 50g (hoặc bố chính sâm) 50g, ý dĩ 100g, bạch truật 50g, mạch nha 100g, binh lang 25g, vỏ quýt 25g. Tất cả sao vàng, nghiền bột mịn, thêm ít nước hồ làm viên. Ngày ăn 2 lần, mỗi lần 8 - 12g. Chữa suy dinh dưỡng trẻ em có kèm theo tiêu chảy.

Ích thận cố tinh. Trị thận hư gây mộng tinh, di tinh, hoạt tinh, đái vặt không nhịn được, phụ nữ đới hạ (bạch đới): dùng Thang bí nguyên: sơn dược 12g, đảng sâm 12g, bạch truật 12g, phục linh 12g, khiếm thực 12g, táo nhân 12g, kim anh tử 12g, viễn chí 6g, ngũ vị tử 6g, cam thảo 6g. Sắc uống. Trị di tinh, tiêu chảy, bạch đới.

Nhuận phế chữa ho. Trị các chứng phế thận âm hư, ho hen suyễn: sơn dược sống, liều lượng tuỳ ý, sắc uống thay nước chè. Trị chứng lao phổi, buổi chiều hơi sốt, thở khó, ho, tự nhiên ra mồ hôi.

Sinh tân chỉ khát. Trị âm hư, tân dịch khô kiệt, sốt cao, miệng khát, đái tháo đường:

Bài 1: Thang Ngọc dịch: hoàng kỳ 12g, cát căn 12g, thiên hoa phấn 12g, tri mẫu 12g, sơn dược 24g, kê nội kim 8g, ngũ vị tử 6g. Sắc uống.

Bài 2: sơn dược 32g, phúc bồn tử 12g, mạch môn 12g, thiên hoa phấn 12g. Sắc uống.

Bài 3: Tuỵ lợn hầm củ mài: củ mài 60g, tụy lợn 1cái, cùng thái lát hầm nhừ, thêm muối gia vị ăn.

Bài 4: hoài sơn 180g, liên tử 90g, phục linh 40g, ngũ vị tử 350g, thỏ ty tử 300g. Tất cả nghiền bột mịn, thêm rượu trộn với nước hồ làm hoàn, viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 50 viên với nước cơm.

Kiêng kỵ: người có thấp nhiệt thực tà không được dùng.

TS. Nguyễn Đức Quang

Hạt dẻ, thuốc quý mùa đông

Theo Đông y, hạt dẻ có vị ngọt, tính ấm đi vào 3 kinh tỳ, vị và thận. Có công năng bổ thận ích tinh, làm mạnh gân cốt, tăng cường chức năng tiêu hóa, nuôi dưỡng dạ dày, cầm máu, chữa trị tiêu chảy do tỳ, vị hư hàn hay lưng gối do thận hư...

Một số bài thuốc thường dùng có hạt dẻ :

Bổ thận, mạnh gân cốt, chữa thận hư lưng gối mềm yếu đau mỏi: Hạt dẻ (bóc bỏ vỏ) 20g, gạo tẻ 50g; gạo và hạt dẻ vo sạch, nấu thành cháo, khi cháo chín thêm đường trắng hoặc chút muối tùy khẩu vị, ăn mỗi ngày một lần.

Hạt dẻ, thuốc quý mùa đông

Hạt dẻ vị ngọt, tính ấm có tác dụng bổ thận, ích tinh...

Bổ tâm thận, mạnh lưng gối, tim loạn nhịp, mất ngủ: Hạt dẻ 10 quả (bóc bỏ vỏ), long nhãn 15g, gạo tẻ 50g; hạt dẻ đập nhỏ trộn cùng gạo nấu thành cháo, khi cháo sắp chín thì cho long nhãn vào nấu đến khi cháo chín, thêm đường trắng trộn đều, ăn điểm tâm buổi sáng hoặc chia đều ăn trong ngày.

Chữa suy nhược cơ thể, tay chân đau nhức, yếu mệt: Hạt dẻ khô khoảng 30g đem nấu chín với nước, cho thêm đường đỏ, ăn một lần trước lúc ngủ.

Trị chứng thận hư, đau nhức xương khớp ở người cao tuổi: Dùng 30 hạt dẻ tươi nướng hoặc hấp chín, ăn hai lần vào buổi sáng và tối.

Trị hen suyễn, thận và khí hư ở người cao tuổi: Dùng 60g hạt dẻ tươi, thịt lợn nạc vừa đủ, 2 - 3 lát gừng tươi, hầm ăn mỗi ngày một lần.

Trị viêm miệng lưỡi, viêm âm nang do thiếu vitamin B2: Hạt dẻ rang chín, mỗi ngày ăn hai lần, mỗi lần 5 - 7 hạt.

Trị tiêu chảy do tỳ vị hư hàn: Hạt dẻ 30g, 12g phục linh, 10 quả táo, 60g gạo tẻ, rửa sạch nấu thành cháo. Khi ăn cho thêm đường trắng.

Hạt dẻ, thuốc quý mùa đông

Cháo hạt dẻ bổ thận, mạnh gân cốt...

Lưu ý: Mặc dù hạt dẻ ngon và bổ nhưng nếu ăn thường xuyên sẽ gây đầy bụng, khó tiêu. Thành phần của hạt dẻ hầu như không có chất xơ, nên ăn nhiều sẽ gây táo bón. Những người tiêu hoá kém không nên ăn hạt dẻ nhiều dễ làm tổn thương tỳ vị.

Người bị bệnh dạ dày nên hạn chế ăn hạt dẻ vì sẽ sản sinh nhiều axit dạ dày, tăng thêm gánh nặng cho dạ dày, người bị nặng sẽ dẫn đến xuất huyết dạ dày. Người bị cảm chưa khỏi, bệnh nhân mắc chứng sốt rét, kiết lỵ, phụ nữ sau khi sinh không nên ăn nhiều hạt dẻ. Mỗi ngày không nên ăn quá 10 hạt dẻ to để tránh bị táo bón.

Khi ăn hạt dẻ cũng cần chú ý không ăn các loại hạt đã có dấu hiệu mốc hỏng. Khi bóc hạt dẻ nếu thấy màu sắc bên trong thay đổi thì cần phải bỏ ngay. Trước khi rang hay chế biến món ăn từ hạt dẻ nên lưu ý cần rửa sạch hạt dẻ hoặc bóc vỏ. Không nên rang hạt dẻ đến mức cháy khét vì sẽ làm giảm đi hàm lượng dưỡng chất trong hạt dẻ. Để bảo quản hạt dẻ được tốt nên để chỗ thoáng mát, sạch sẽ, phòng mối mọt.

Bác sĩ Thanh Lan

Cải canh giúp kiện tỳ, tiêu đờm, mát phế

Chữa đầy bụng, chậm tiêu, ngực sườn đầy tức, viêm khí quản, ho đàm, mập phì, mỡ máu cao, mụn nhọt, chứng đàm thấp nhức mỏi. Hạt cải canh còn gọi bạch giới tử, là vị thuốc quý tác dụng tiêu đờm lợi thấp, ôn trung, chỉ thống, tán kết. Trị ho suyễn, phong thấp tê dại. Hạt cải ép lấy dầu chế mù tạc là món gia vị khoái khẩu nhiều người.

Sau đây, xin giới thiệu một số món ăn thuốc từ cải canh:

Chữa ho mệt thở dốc: rau cải canh nấu với phổi lợn, thịt lợn băm nhỏ xào hành cho thơm, gia vị vừa đủ nấu canh ăn.

Chữa ho sổ mũi do phong hàn: cải canh 100g, gừng tươi 15g, sắc nước uống.

Chữa bụng đầy, ho đàm: cải canh 150g, vỏ quít 20g, sắc uống.

Chữa ăn chậm tiêu: cải canh luộc chấm mắm gừng ăn thường xuyên.

Chữa đau nhức các khớp do thấp: bạch giới tử 120g, mộc miết tử 120g, một dược 20g, quế tâm 20g, mộc hương 20g. Các vị tán bột, mỗi lần uống 4g, ngày 2 lần với rượu ấm.

Chữa hơi lạnh trong bụng đưa lên: bạch giới tử 1 chén, sao qua, tán bột, làm hoàn to bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 10 hạt với nước gừng.

Chữa liệt thần kinh mặt ngoại biên: bạch giới tử hoặc hoàng giới tử tán bột 10g, trộn với nước, gói vào miếng gạc đắp vào vùng liệt ở má, giữa 3 huyệt địa thương, hạ quan và giáp xa.

Thường xuyên ăn cải canh bằng cách nấu canh thịt, cá hoặc luộc, xào làm ăn ngon mau tiêu, ngủ dễ, giảm chứng mỡ máu cao, mập phì, trừ phong thấp nhức mỏi tê bì.

Lương y Nguyễn Văn Sáu

Rễ cỏ may trị bệnh gan

Thu hái cây quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô. Cây cao 50-60cm, có thân rễ mọc bò. Lá xếp sít nhau ở gốc, hình dải hẹp, mềm, phẳng, mép nhăn nheo, bẹ tròn, không có tai, hẹp. Cụm hoa là chùy kép, màu nhạt hay màu tím sậm, dài 2,5-10cm; cuống chung khá lớn, mang cành nhánh hình sợi; mỗi đốt mang 3 bông nhỏ không cuống, hay gãy và mắc vào quần áo. Quả dẹp, dài.

Cỏ may là vị thuốc Nam quý, được sử dụng rộng rãi trong YHCT. Để làm thuốc dùng thân rễ và toàn cây, dược liệu có vị đắng, tính mát, có tác dụng giải nhiệt, tiêu độc, lợi tiểu, chữa da vàng, mắt vàng và trị giun.

Dưới đây là bài thuốc kinh nghiệm thường dùng để bạn đọc tham khảo:

Chữa bệnh về gan, da vàng, mắt vàng: Rễ cỏ may 60g rửa sạch, sắc với 500ml nước còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày. Uống liền trong 5-7 ngày.

Trị giun đũa: Hạt cỏ may 20g sao vàng, sắc với 400ml nước, còn 150ml, uống tất cả nước sắc này 1 lần sau bữa ăn.

Chữa giun chui ống mật: Rễ cỏ may 30g, rửa sạch, sắc với 300ml nước còn 100ml, uống 1 lần lúc thuốc còn ấm. Sau đó lấy 1 quả trứng gà tươi đập lấy lòng đỏ và lòng trắng khuấy đều với 1 thìa cà phê đường kính hoặc 2 thìa mật ong uống liền. Lập lại lần 2 nếu còn cơn đau nhẹ.

Trong rễ cỏ may không có độc tố. Sau khi uống thuốc, hết các triệu chứng, uống 1 liều thuốc tẩy giun albendazol hoặc mebendazol... Người mắc chứng giun chui ống mật, cứ 6 tháng đến 1 năm phải uống thuốc tẩy giun 1 lần.

Lương y Minh Tiến

Thuốc hay từ chuối

Nước ta có nhiều loại chuối như chuối tiêu, chuối tây, chuối hột. Trong đó chuối tiêu được dùng làm thực phẩm dinh dưỡng và làm thuốc nhiều nhất.

Chuối tiêu thơm ngon, giàu dinh dưỡng do chứa bột đường (glucose, fructose, sucroe); protein là albumin và globulin, mà được cấu tạo bởi các acid amin cần thiết; các vitamin: A, B, C, H...; các nguyên tố Ca, Fe, Mg, K, Na, Zn... và nhiều enzym: amylase, invertase... Theo Đông y, chuối tiêu vị ngọt, tính lạnh; vào vị, đại tràng. Có công năng tư âm, nhuận tràng, nhuận phế, thanh nhiệt, giải độc. Dùng cho các trường hợp táo bón, sốt nóng khát nước, mụn nhọt, trĩ xuất huyết, tăng huyết áp, bệnh mạch vành, an thai. Vỏ quả chuối chín có vị ngọt, chát, tính ôn; có tác dụng sát khuẩn, chỉ tả. Củ chuối: vị ngọt, lạnh; có tác dụng thanh nhiệt giải độc. Dịch nhựa chảy ra từ thân hay củ chuối: vị ngọt, chát, tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, giải độc. Hằng ngày có thể ăn 1 - 5 quả; 20 - 30g vỏ chuối; 60 - 120g tươi củ chuối.

Chuối tiêu thơm ngon, giàu dinh dưỡng, lại là vị thuốc nhuận tràng nhuận phế trị táo bón, trĩ xuất huyết, phế nhiệt.

Một số đơn thuốc và thực đơn chữa bệnh:

Chữa đái ra máu: củ chuối tươi 120g, cỏ nhọ nồi 30g. Sắc lấy nước, uống trong ngày.

Chữa trĩ ra máu: chuối 2 quả, để cả vỏ, nấu chín, ăn trong ngày, dùng nhiều lần.

Chữa phế nhiệt, đàm suyễn: củ chuối tươi 60g, rau sam 30g. Giã nát ép lấy nước, đun âm ấm để uống.

Chữa mụn nhọt ở sống lưng, viêm cơ: củ chuối hay rễ chuối, giã nát đắp chỗ đau.

Chữa trúng độc do ăn uống: củ chuối tiêu 200g - 500g, thái miếng, sắc đặc lấy 1 bát. Cho uống để gây nôn.

Phòng và chữa viêm loét dạ dày: chuối tiêu xanh thái lát, phơi hay sấy ở nhiệt độ dưới 500C, tán bột. Ngày uống 20 - 30g.

Chuối luộc: chuối chín 2 - 3 quả, để cả vỏ luộc chín, cho ăn cả vỏ. Dùng cho các trường hợp táo bón, trĩ nội, ngoại xuất huyết.

Chuối hấp đường phèn: chuối chín 2 - 3 quả, đường phèn 100g. Chuối cắt đoạn, thêm đường phèn, đun cách thủy cho chín. Ngày 1 - 2 lần. Dùng cho các trường hợp viêm khí phế quản, ho khan, đờm ít dính, táo bón.

Kiêng kỵ: Không dùng nhiều khi bị tiêu chảy, đầy bụng trướng hơi.

Ts. Nguyễn Đức Quang

Những vị thuốc quý từ quả nhót

Lá nhót chứa tanin, saponosid, polyphenol.

Theo YHCT, quả nhót có vị chua, chát, tính bình, vào các kinh phế đại tràng, có tác dụng chỉ ho, trừ đờm, bình suyễn, chỉ tả. Lá có vị chát có tác dụng chỉ ho, bình suyễn, giảm sốt.

Nhân hạt nhót có tác dụng sát khuẩn, trị giun sán. Rễ có tác dụng cầm máu, giảm đau, thường dùng dưới dạng thuốc sắc, dùng riêng lẻ hoặc phối hợp với các vị thuốc khác. Liều dùng hằng ngày: quả 8 - 12g (5 - 7 quả khô), lá tươi 20 - 30g, lá và rễ (khô) 12 - 16g. Dùng ngoài dưới dạng nước tắm, rửa mụn nhọt, không kể liều lượng.

Theo các thực nghiệm về sinh học, lá nhót có tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều chủng vi khuẩn gram dương và gram âm; đặc biệt đối với các chủng trực khuẩn lỵ: Shigella dysenteria, Shigella shiga, Shigella flexneri, Shigella sonnei. Trên động vật thí nghiệm, lá nhót có tác dụng chống viêm cấp và mạn tính; tác dụng tăng cường sức co bóp của tử cung.

Nhót chín đỏ ngọt lịm

Các dược liệu từ nhót thường được dùng trị một số chứng bệnh sau đây:

Trị lỵ trực khuẩn và bệnh tiêu chảy, viêm đại tràng mạn tính:

Lấy 20 - 30g lá nhót tươi hoặc 6 - 12g lá nhót khô, sao vàng, sắc với 400ml nước còn 100ml, chia 2 lần uống trong ngày, trước các bữa ăn 1,5 giờ. Có thể uống liền 1 - 2 tuần đến khi hết các triệu chứng. Hoặc dùng dưới dạng bột khô lá nhót, ngày 2 - 3 lần, mỗi lần 8 - 12g, uống với nước cơm; hoặc phối hợp đồng lượng với bột của vỏ cây đỗ trọng nam. Lưu ý: khi uống cần kiêng các thức ăn tanh, lạnh: cá cua, ốc, ếch...

Trị ho, nhiều đờm, hen suyễn:

Lá nhót 16g sao vàng, lá táo ta (táo chua) 12g sao vàng; hạt cải củ, hạt cải bẹ, mỗi thứ 6g, sao vàng, giã giập. Hạt cải củ, cải bẹ gói vào miếng vải sạch, cho vào cùng sắc nước với lá nhót và lá táo. Sắc 2 - 3 lần, gộp dịch nước sắc lại, chia 3 lần uống trong ngày trước bữa ăn 1,5 giờ. Uống liền 2 - 3 tuần đến khi các triệu chứng thuyên giảm.

Nhót xanh dầm muối ớt là món khoái khẩu với những người ăn đồ chua

Trị ho, hen, khó thở:

Có thể dùng quả nhót 6 - 12g/ngày, dưới dạng thuốc sắc, thuốc hãm, hay thuốc bột. Uống nhiều ngày, tới khi các triệu chứng thuyên giảm.

Trị ho ra máu, hoặc nôn ra máu, chảy máu cam:

Rễ nhót 16g sao đen, sắc uống ngày một thang. Có thể phối hợp với cỏ nhọ nồi, ngải diệp, trắc bách diệp. Tất cả đều sao đen, sắc uống ngày một thang, chia 3 lần uống trước bữa ăn 1,5 giờ. Trong khi uống thuốc, cần kiêng các thứ cay nóng: rượu, bia, ớt...

Quả nhót, lá nhót, hạt nhót đều có thẻ dùng làm thuốc

Kiêng kỵ: Lá và rễ nhót không dùng cho phụ nữ có thai.

Khi sử dụng nhót, cần tránh nhầm lẫn với vị thuốc nhót tây, còn gọi nhót Nhật Bản, hay tỳ bà diệp. Nhót tây mọc hoang và được trồng ở nhiều ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Nội... Nhót tây cao tới 6 - 8m. Lá mọc so le, hình mác, có răng cưa, dài 12 - 30cm, rộng 3 - 8cm, phía mặt dưới của lá có rất nhiều lông màu xám hay vàng nhạt. Đây là đặc điểm nổi bật để phân biệt với nhót. Lá nhót tây cũng được sử dụng để trị ho, hen.

GS. TS. Phạm Xuân Sinh

Những loài hoa lan làm thuốc

(Tiếp theo kỳ trước)

Việt Nam có lợi thế rất lớn về nguồn lan phong phú và đa dạng,tuy nhiên chúng vẫn chỉ được dùng chủ yếu cho mục đích trang trí. Một nguồn thảo dược vẫn còn chưa được khai thác và ứng dụng trong vấn đề chăm sóc sức khỏe con người.

Thố nhĩ lan, lục lan, lan kiếm lá giáo

Cymbidium lancifolium Hook. f., thuộc họ Lan - Orchidaceae.

Mô tả: địa lan cao 40 - 50cm; rễ to 4mm; giả hành đứng cao 6 - 10cm, mang xơ của bẹ và 3 - 4 lá, có cuống dài đến 10cm. Phiến lá hình bầu dục thon, dài 7 - 20cm, rộng 3 - 4cm, gân 5, giữa là gân mảnh. Cụm hoa từ gốc giả hành, ngắn hơn lá, dài 10 - 30cm, mang 3 - 6 (-8) hoa; cuống và bầu dài 2,5cm, phiến hoa dài 3,5cm, màu lục tái; môi có rằn tím và tía; cột có cánh. Quả nang dài 5cm. Hoa tháng 12.

Bộ phận dùng: toàn cây - Herba Cymbidii Lancifolii. Nơi sống và thu hái: loài phân bố từ Nêpan ra phía đông tới Nhật Bản và về phía nam qua Indonesia tới Niu Ghinê. Ở nước ta, lan này mọc ở Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phú), Cúc Phương (Ninh Bình), Konplong (Kon Tum), Đà Lạt (Lâm Đồng).

Những loài hoa lan làm thuốc

Lục lan

Tác dụng: có tác dụng nhuận phế, tục cân.Công dụng, chỉ định và phối hợp: cũng được dùng làm thuốc trị ho, viêm nhánh khí quản, đòn ngã tổn thương.

Lan gấm đất cao

Lan gấm đất cao - Goodyera procera

Ker Gawl.) Hook, thuộc họ Lan - Orchidaceae.

Mô tả: địa lan cao đến 50cm, mang lá từ gốc lên đến giữa thân. Lá có phiến thon nhọn, dài 10 - 15cm. Cụm hoa gần như dạng bông hẹp, mang hoa xếp dày đặc, dài 2 - 4cm, lá đài giữa dính với cánh hoa làm thành mũ, môi dài 2mm, gốc có u, gần như 3 thùy, có lông mặt trong, bầu không lông, dài 4 - 5mm.

Bộ phận dùng: toàn cây - Herba Goodyerae Procerae.

Nơi sống và thu hái: loài phân bố từ Sri Lanca, Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines, Indonesia và các nước Đông Dương. Ở nước ta, cây mọc rải rác trong các rừng ẩm thưa, nhiều mùn từ Bắc vào Nam từ vùng núi cao đến các vùng trung du, đồng bằng có gặp ở Lào Cai, Hà Giang, Thừa Thiên - Huế, Ninh Thuận.

Tính vị, tác dụng: vị ngọt, nhạt, tính bình, có tác dụng khu phong trấn kinh, trừ ho chặn suyễn, tiêu thũng lợi niệu, khu phong thấp.

Lan giáng hương

Lan giáng hương, Giáng xuân - Aerides falcata Lindl thuộc họ Lan Orchidaceae.

Mô tả: lan bì sinh, không có hành giả, thân dài cao đến 15cm. Lá hình dải dài 25 - 30cm, rộng 2 - 4cm, chia 2 thùy không cân và thõng với một mũi nhọn ở giữa, dài, màu mốc ở trên, khía lục sẫm ở dưới. Cụm hoa thõng, cũng dài gần bằng lá; hoa rộng 2,5 - 4cm, thành chùm khá thưa, cánh hoa trắng với một đốm tía ở đầu, môi có 2 thùy bên tim, hình lưỡi liềm, thùy giữa tía to, chẻ đôi, bìa mép mịn, móng dài 1cm. Quả nang dài 4cm. Ra hoa tháng 4 - 6, quả tháng 8 - 10.

Bộ phận dùng: toàn cây - Herba Aeridis Falcatae.

Nơi sống và thu hái: cây mọc phổ biến từ Bắc chí Nam, tập trung ở dọc dãy Trường Sơn, vùng Tây Nguyên (Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng) đến Đồng Nai, Kiên Giang. Cũng được trồng nhiều ở Đà Lạt vì có hoa đẹp và có hương thơm.

Công dụng: cây được dùng sắc nước cho trẻ em bị gầy yếu suy dinh dưỡng uống. Ở Campuchia, dùng làm thuốc hạ nhiệt. Lá hơ nóng ép cho ra nước, nhỏ vào tai chữa nhọt trong tai.

Lan hạc đính

Lan hạc đính - Phaius tankervillae (Banks ex LHér) Blunne, thuộc họ Lan - Orchidaceae.

Mô tả: địa lan to, có củ. Lá như xếp dọc, màu lục nhạt. Chùm hoa đứng, cao 30 - 50cm, dẹp, lá bắc to, trắng mau rụng, hoa to, rộng 10cm, bầu và cuống dài 2 - 3cm, phiến hoa trắng mặt ngoài, nâu mặt trong, môi đỏ có sọc vàng và 2 sóng nhỏ, cột trắng.

Nơi sống và thu hái: loài của Sri Lanca, Ấn Độ, Nêpan, Nam Trung Quốc, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Bắc Úc và quần đảo Tây Thái Bình Dương. Ở nước ta, gặp mọc hoang ở Thừa Thiên-Huế, Kon Tum, Lâm Đồng (Đà Lạt), Đồng Nai (Biên Hòa), ngoài ra cũng thường được trồng ở một số địa phương trên.

Tính vị, tác dụng: vị hơi cay, tính ấm; có tác dụng thanh nhiệt trừ ho, trục đờm, hoạt huyết, chỉ huyết.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: dùng thân củ để trị ho có nhiều đờm, lạc huyết đòn ngã viêm tuyến vú, ngoại thương xuất huyết. Ngoài ra, hoa, lá dùng làm thuốc tiêu mụn nhọt, lợi tiểu, sát trùng, trừ chất độc, chữa đau tức, lậu, bạch trọc.

Lan kiếm

Đoản kiếm nâu, lan hoa, hoa lan tàu, đai giáp - Cymbidium ensifolium (L.) Sw, thuộc họ Lan - Orchidaceae.

Mô tả: loài địa lan cao 50 - 90cm, mọc thành bụi dày, gốc dạng sợi, có rễ dày hình trụ. Lá 3 - 12 cái thì tiêu giảm thành bẹ nhọn, những cái khác có phiến hình dải, dài 60 - 75cm, rộng 8 - 15mm, có mũi ngắn, thon, hẹp dài thành một cuống rộng phình ra thành bẹ. Cán hoa dài 25 - 40cm có gốc, gần như dẹp, mang hoa ở 15 - 18cm, phía ngọn, hoa 4 - 8, màu vàng xanh có tâm nâu và chấm đỏ, phiến hoa hẹp, môi hình đàn vĩ cầm có bớt đỏ. Quả nang dài 4 - 6cm. Bộ phận dùng: toàn cây - Herba Cymbidii Ensifolii.

Nơi sống và thu hái: loài của đông Bắc Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia, Indonesia. Thường gặp trên các đụn mối vùng bình nguyên đến cao nguyên, từ Lao Cai, Hòa Bình đến Kon Tum, Lâm Ðồng.

Công dụng: hoa để nấu nước rửa mắt. Lá được sử dụng như thuốc lợi tiểu. Rễ được dùng phối hợp với các vị thuốc khác làm thuốc bổ phổi, trị ho.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

(Đơn vị Điều trị ban ngày, Cơ sở 3 BV. Đại học Y Dược TP.HCM)

Độc hoạt

Trong đó, những bài thuốc điều trị bệnh lý khớp như: Độc hoạt tang ký sinh, Khương hoạt thắng thấp thang, Tam tý thang, Quyên tý thang, Phòng phong thang... đều có chứa vị độc hoạt hoặc khương hoạt, hoặc cả hai vị.

Bệnh lý khớp

Bệnh lý khớp là những căn bệnh đứng đầu hiện nay. Theo thống kê tại các bệnh viện thì bệnh xương khớp không còn là căn bệnh của người già nữa mà đã xuất hiện rộng rãi ở mọi lứa tuổi. Khi tổn thương khớp thường khó lành lại và sẽ khó có thể phục hồi, di chứng nặng nề từ các bệnh này để lại sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe, cuộc sống sinh hoạt bình thường của người bệnh. Các bệnh xương khớp thường gặp nhất hiện nay:

Viêm khớp:

Đây là bệnh lý rất phổ biến có thể gặp ở mọi lứa tuổi, tình trạng viêm xảy ra chính là cơ chế tự vệ của cơ thể trước sự xâm nhập của các yếu tố bên ngoài như: chấn thương hoặc bên trong như di truyền, nhiễm trùng, chuyển hóa của bệnh gút… Khi mắc phải các chứng viêm khớp này thì người bệnh sẽ nhận thấy những biểu hiện như: sưng, nóng, đỏ, đau, cứng khớp. Có rất nhiều dạng viêm khớp khác nhau, tuy nhiên một số dạng thường gặp, như: viêm khớp dạng thấp, thấp khớp cấp, bệnh gút, viêm cột sống dính khớp… Viêm khớp lâu ngày có thể dẫn đến đau nhức, mất khả năng vận động hoặc thậm chí bị tàn phế.

Thoái hóa khớp:

Bao gồm thoái hóa các khớp và thoái hoá cột sống là bệnh lý rất thường gặp ở người, đặc biệt người có tuổi; là quá trình lão hóa của các tế bào và tổ chức quanh khớp đặc biệt là sụn khớp, kết hợp với tình trạng chịu áp lực quá tải kéo dài của sụn khớp. Tổn thương cơ bản của thoái hóa khớp là tổn thương sụn khớp hoặc đĩa đệm cột sống.

Thoái hóa cột sống thường xảy ra tại hai vị trí là cột sống cổ và cột sống thắt lưng, là tổn thương các đĩa đệm cột sống gây kích thích các nhánh thần kinh ở vùng dây chằng sau cột sống. Bệnh chính là kết quả của việc thoái hóa do nhiều yếu tố tác động hình thành trong một quá trình dài gây ra. Đồng thời khi đó, các dây chằng giảm dần độ đàn hồi, bị dòn, cứng, phình to, chất vôi lắng đọng bên trong gây chèn ép các rễ thần kinh sinh ra các cơn đau kéo dài làm cho người bệnh mất khả năng đi lại và sinh hoạt hàng ngày.

Khớp gối là khớp thường gặp phải các thương tổn nhiều nhất, vì toàn bộ trọng lượng cơ thể đều dồn xuống khớp gối, cộng thêm với việc hoạt động nhiều đi lại sẽ gây tổn thương sụn khớp. Khi đó bề mặt của khớp bị mất dần khiến cho chức năng của khớp tiêu giảm, dẫn đến khó khăn trong hoạt động sinh hoạt hàng ngày và gây đau nhức, nhất là trong thời tiết lạnh.Các khớp chịu ảnh hưởng thường nằm ở những vị trí chịu đựng tải trọng của cơ thể như: khớp háng, khớp gối, khớp cổ chân. Trường hợp nặng nhất đối với thoái hóa khớp đó là khi phần sụn bị vỡ ra và mối liên kết này bị tiêu biến làm tăng sự cọ xát giữa các xương, gây giãn dây chằng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng cử động và di chuyển, thậm chí là tàn tật.

Thành phần, tác dụng của độc hoạt và khương hoạt

Y học cổ truyền không có các bệnh danh về khớp như y học hiện đại. Nhưng các bệnh lý ở khớp như: sưng khớp, đau khớp, biến dạng khớp được y học cổ truyền mô tả trong phạm trù các chứng hậu như: chứng tý, tích bối thống, hạc tất phong…

Trong các bài thuốc điều trị bệnh lý về khớp, độc hoạt, khương hoặc hoặc cả hai trong một bài thuốc như là vị chủ dược, với tác dụng giảm đau. Độc hoạt và khương hoạt ngoài tác dụng giảm đau, còn có tác dụng chống viêm.

Độc hoạt:

Dược lý hiện đại:

- Thuốc có tác dụng giảm đau, an thần và kháng viêm rõ rệt.

- Thuốc nước và thuốc sắc độc hoạt đều có tác dụng hạ áp rõ rệt nhưng thời gian duy trì ngắn. Độc hoạt chích tĩnh mạch có tác dụng hưng phấn hô hấp. Độc hoạt còn có thành phần có tác dụng ức chế ngưng tập tiểu cầu trên ống nghiệm.

- Thuốc có thành phần chống loét bao tử, chống co thắt hồi manh tràng.

Độc hoạt - khương hoạt trong điều trị bệnh lý khớpCây độc hoạt

Công dụng và liều dùng:

- Các khớp đau và lưng gối đau nhức bất kể đau lâu hay mới đau; đau đầu, đau răng. Những người âm hư hỏa vượng không dùng được.

- Liều dùng ngày từ 3 - 6g, dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu, thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.

Theo y học cổ truyền, độc hoạt có tác dụng điều trị tốt các chứng đau từ thắt lưng trở xuống, như: đau lưng, đau khớp… bất kể đau lâu hay mới đau. an thần, kháng viêm, hạ áp và ức chế ngưng tập tiểu cầu. Ngoài ra, còn có tác dụng chống co thắt hồi tràng, chống loét bao tử, ngừa hoại tử đầu xương đùi.

Khương hoạt:

Độc hoạt - khương hoạt trong điều trị bệnh lý khớpCây khương hoạt

Thành phần hóa học:

Khương hoạt chứa: tinh dầu bay hơi, -sitosterol, hợp chất Coumarins, hợp chất Phenols, Daucossterol, Imperatorin, Organic acids và Alkaloids…

- Khương hoạt có vị cay đắng, tính ấm, không độc.

- Công dụng: chữa đau nhức các khớp xương trong toàn thân, trị các chứng phong thấp mới mắc hay mắc đã lâu, gân xương co nhức, cổ gáy cứng khó cất lên được.

BS. LÝ MINH KIỆT

Tỳ bà diệp

Theo Đông y, tỳ bà diệp vị đắng, tính hàn; vào kinh phế và vị. Có tác dụng mát phổi, thanh phế, giáng khí, hoá đờm, chữa ho; còn có tác dụng mát dạ dày (thanh vị), chống nôn. Liều dùng: 8-12g. Sau đây là một số bài thuốc trị bệnh từ tỳ bà diệp:

Mát phổi, chữa ho: Dùng khi ho do phế nhiệt, cũng có thể phối hợp với thuốc có tính ôn để chữa ho do lạnh.

Bài 1: Lá tỳ bà 12g, quả dành dành 12g, hoàng liên 8g, hoàng bá 8g, cam thảo 4g, vỏ rễ dâu 12g, sa sâm 12g. Sắc uống. Chữa ho, đờm vàng đặc, rêu lưỡi vàng, miệng đắng, họng khô ráo.

Bài 2: lá tỳ bà 20g, tía tô 20g. Sắc uống. Chữa ho do cảm lạnh.

Bài 3: lá tỳ bà 1.000g, mật ong 500g. Đun lá tỳ bà với 4.000ml nước, bỏ bã, cô đặc. Thêm mật ong, cô lại còn 2.000g, cho vào lọ. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 chén nhỏ (30ml). Chữa viêm phế quản mạn tính, ho lâu ngày không khỏi.

Bài 4: tỳ bà diệp 12g, tang bạch bì 8g, hoàng liên 4g, hoàng bá 4g, nhân sâm 4g, cam thảo 4g. Sắc uống. Chữa ho do phong nhiệt.

Bài 5: lá tỳ bà 125g, bách bộ 125g, rễ cỏ tranh 125g, xơ quả mướp 20g, tỏi củ 63g. Rửa sạch các loại thuốc, đun với 2.500ml nước, bỏ bã, cô lại còn độ 500ml. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 chén nhỏ. Chữa ho gà.

Bài 6: tỳ bà diệp 20g, khoản đông hoa 10g, cam thảo 5g. Sắc uống. Chữa ho, viêm khí quản mạn tính.

Mát dạ dày, chống nôn: Dùng khi nôn, nấc do nóng trong dạ dày (vị nhiệt).

Bài 1 - chè thuốc tỳ bà: lá tỳ bà 12g, đảng sâm 12g, bán hạ 12g, phục linh 12g, hạt cau 12g, rễ cỏ tranh 12g, gừng tươi 8g. Sắc uống.

Bài 2: tỳ bà diệp 12g, trúc nhự 12g, lô căn 12g, chích cam thảo 6g. Sắc uống. Trị nôn và buồn nôn do vị nhiệt

Chữa chảy máu cam: lá tỳ bà lau sạch lông, sao vàng, tán nhỏ. Ngày 2 lần, mỗi lần dùng 4 - 8g, uống với nước chè.

Trị cảm nắng, đầu váng mắt hoa: tỳ bà diệp 10g, cam thảo (chích) 20g, đinh hương 10g, hậu phác 10g, hương nhu 15g, mạch môn 20g, bạch mao căn 20g, mộc qua 20g, trần bì 10g, gừng tươi 3 lát. Tán bột, mỗi lần dùng 10 - 15g hay sắc uống.

Lưu ý: Khi dùng lá tỳ bà phải sát chải sạch lông. Muốn dùng chống nôn thì tẩm gừng, nướng. Chữa ho lâu ngày thì tẩm mật ong, nướng.

Kiêng kỵ: Người bị nôn và ho do lạnh không nên dùng.

Lương y Thảo Nguyên

Lá vông nem

Cây vông nem (tên khoa học là Erythrineme orientalis (L). Là cây thường được làm hàng rào và làm cảnh. Bà còn ta hay dùng lá gói nem. Nó cũng làm vị thuốc chữa nhiều bệnh thông thường, nhất là dùng để an thần, vỏ chữa thấp khớp. Xin giới thiệu một số công thức đơn giản để dùng an thần gây ngủ.

Lá vông nem

Lá vông nem làm rau sống (chấm nước kho cá, thịt).

Lá vông nem gói nem, gói bánh xèo, bánh khọt...

Nước lá vông - dâu: Lấy hai loại lá lượng bằng nhau tùy ý giã nhỏ thêm nước vắt, lọc uống vào buổi chiều.

Canh lá vông: Nấu lá vông thái nhỏ hoặc thêm hoa thiên lý, hoặc thêm cá diếc, tôm, thịt nạc, trứng...

Lá vông nem - Vị thuốc an thần kinh

Cây vông nem.

Lá vông xào củ sen: Lá vông 20g, củ sen 200g, cả hai thái nhỏ xào với gan lợn. Nêm gia vị.

Cháo lá vông: Lá vông nem 30g, lá dâu 40g, đậu đen 100g. Vừng đen 100g (xát nhỏ, tán mịn) nấu đậu nhừ rồi cho bột vừng đun sôi lại mới cho hai rau trên, tắt lửa để 10 phút. Thêm đường hoặc muối.

Nước sắc lá vông dừa: Lá vông nem 3 ngọn (đọt) thái nhỏ sắc với nước dừa để uống vào trưa tối.

Cao lá vông nem: Lá vông nem 2kg, tâm sen 300g, đường 500g. Nấu thành cao. Mỗi ngày dùng 15-20g trước khi đi ngủ 30 phút.

Bài thuốc chữa mất ngủ do tâm can khí vượng: Lá dâu tươi 100g, lá và dây lạc tiên 100g, lá vông 100g. Cả ba giã nát sắc uống ngày 2 lần mỗi lần 50ml trong 1 tuần.

Lá vông còn nhiều cách dùng tươi khô, uống trong đắp ngoài đơn thuần hoặc phối hợp lá khác (cũng có tác dụng an thần), dưới các dạng bột, rượu, sirô. Lá vông còn nhiều công dụng như chữa âm hư nội nhiệt, trẻ em ra mồ hôi trộm, người lớn bị tăng huyết áp, lở loét ngoài da, trĩ lòi dom, rắn cắn...

Vỏ vông nem tính bình vị đắng vào can thận (không vào tâm, tỳ) và chủ yếu để chữa phong tê thấp.

Hoa vông nem chữa kinh nguyệt không đều, rong kinh: mỗi lần dùng 40g sắc uống.

Lưu ý: dùng lá vông nấu nước, nấu canh quá đặc dẫn đến tình trạng sụp mi (mi trên sụp xuống như buồn ngủ nhưng không ngủ được) và cơ khớp rã rời. Đó là những dấu hiệu sớm báo động tình trạng ngộ độc, cần dừng lại. Do vậy chỉ nên ăn, uống một lượng vừa phải lá vông. Cụ thể: “Mỗi bữa một người không được ăn quá 10-15 lá”... Để tăng hiệu quả nên phối hợp thêm các thức ăn hoặc vị thuốc an thần khác như lá dâu, tâm sen, lạc tiên...

BS. Phó Đức Thuần

Bạch thược dược

Bộ phận dùng là rễ củ. Theo đông y, vị thuốc có vị đắng chua, tính hơi hàn; vào can, tỳ. Tác dụng bổ huyết, liễm âm, bình can chỉ thống. Dùng cho các trường hợp âm huyết hư, can dương vượng, đau tức vùng ngực bụng, đau do co cứng tay chân, đau bụng do tả lỵ. Đau đầu hoa mắt chóng mặt, sốt nóng vã mồ hôi, mồ hôi trộm (tự hãn, đạo hãn, âm hư), kinh nguyệt không đều... Dùng ngày 10 - 30g; nấu, sắc, ngâm, hãm.

Một số đơn thuốc có bạch thược:

Liễm âm, cầm máu: Trị chứng âm hư, chảy máu cam, nôn ra máu, đi ngoài ra máu, băng lậu đới hạ (khí hư), mồ hôi trộm, mồ hôi tự ra.

Thuốc bột bạch thược dược: Bạch thược 8g, thục địa 8g, can khương 8g, quế tâm 8g, long cốt 8g, mẫu lệ 8g, hoàng kỳ 8g, cao ban long 8g. Tán thành bột mịn. Ngày 3 lần, mỗi lần 8g, uống trước khi ăn, hoà với rượu cùng uống hoặc chiêu với nước. Trị chứng khí hư ra dầm dề, người gầy vàng vọt.

Thược dược thang: thược dược 20g, đương quy 10g, hoàng liên 8g, binh lang 6g, mộc hương 6g, đại hoàng 8g, cam thảo 6g, hoàng cầm 8g, quan quế 2g. Sắc uống. Điều hòa khí huyết, thanh nhiệt giải độc. Trị thấp nhiệt, đau bụng đi ngoài ra máu mủ lẫn lộn, mót đi nhưng không đi được, hậu môn nóng rát.

Bổ huyết điều kinh:

Thang Tứ vật: thục địa 20g, đương quy 12g, bạch thược 12g, xuyên khung 6g. Sắc uống. Trị chứng do huyết hư mà thành kinh nguyệt không đều, hành kinh đau bụng.

Thuốc dưỡng huyết bình can: Bạch thược 8g, đương quy 8g, hương phụ 8g, thanh bì 4g, sài hồ 4g, xuyên khung 4g, sinh địa 4g, cam thảo 3g. Sắc uống. Trị chứng hành kinh đau bụng.

Giãn gân, giảm đau:Trị các chứng do can khí bất hoà sinh ra đau bụng, đi lỵ, tiêu chảy, tứ chi mỏi rã rời.

Thang thược dược cam thảo: Bạch thược 16g, cam thảo 16g. Sắc uống. Trị chứng bắp thịt co rút đau buốt.

Thang bạch thược hoàng cầm: Bạch thược 12g, hoàng cầm 12g, cam thảo 6g. Sắc uống. Trị đau bụng lỵ.

Thuốc đương quy bạch thược: Đương quy 6g, xuyên khung 6g, bạch thược 20g, bạch linh 8g, bạch truật 8g, trạch tả 10g. Tán thành bột mịn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 8g, hoà với rượu hoặc chiêu bằng nước. Trị chứng có thai đau bụng liên miên.

Thống tả yếu phương: Bạch truật (hoàng thổ sao) 12g, bạch thược sao 8g, trần bì 6g, phòng phong 8g. Sắc uống. Trị đau bụng, tiêu chảy.

TS. Nguyễn Đức Quang

Kim ngân: Hoa đẹp giải nhiệt

Kim ngân hoa hay còn có tên gọi khác là nhẫn đông hoa. Sở dĩ có tên này vì cây không những có khả năng chịu đựng được mùa đông mà còn có thể phát triển xanh tốt vào giai đoạn thời tiết này (nhẫn đông nghĩa là chịu đựng mùa đông). Cây kim ngân khi ra hoa có điểm rất đặc biệt là những hoa ra sớm sẽ có màu trắng như bạc, sau đó một thời gian nở lâu dài các hoa này sẽ chuyển sang màu vàng, cho nên trên cùng một cây ta có thể thấy được 2 màu sắc hoa cùng hiện diện là hoa trắng và hoa vàng, vì thế cây được đặt tên là kim ngân (kim là vàng, ngân là bạc).

Mô tả cây

Kim ngân có tên khoa học là Lonicera japonica Thunb. Đây là loại cây mọc hoang ở nhiều tỉnh phía bắc nước ta, đặc biệt là các tỉnh miền núi như: Cao Bằng, Lạng Sơn. Ngày nay, cây đã được trồng phổ biến ở nhiều nơi để làm thuốc điều trị bệnh. Đây là một loại cây có thân dây mọc leo, thân cây có khả năng vươn dài tới 10m hoặc hơn. Cành cây lúc còn non có màu lục nhạt, phủ lông mịn, khi cành già chuyển sang màu nâu đỏ nhạt, nhẵn. Lá mọc đối hoặc vòng 3, hình trứng dài, đầu hơi tù, phía cuống tròn, cuống ngắn, cả 2 mặt lá đều phủ lông mịn. Bộ phận thường được thu hái là hoa, còn cành lá ít được sử dụng hơn vì tác dụng dược lý so với hoa không hiệu quả bằng. Người ta thường thu hái vào đầu mùa hạ những hoa có nụ mới nở còn màu trắng chưa chuyển vàng là tốt nhất.

Cây kim ngân có thể mọc xanh tốt quanh năm, lại cho hoa đẹp và thơm, nên cây còn có thể được sử dụng để làm cây cảnh trong vườn nhà, vừa có thể sử dụng như một vị thuốc có sẵn cho gia đình.

Những lợi ích

Theo Đông y, kim ngân hoa vị ngọt, tính hàn, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, trị sốt. Trong nhân gian thường sử dụng để chữa mụn nhọt, rôm sảy, thủy đậu, sởi, tả lỵ. Ngoài ra, đã có một số nghiên cứu cho thấy kim ngân có vai trò trong điều trị dị ứng, viêm mũi và thấp khớp. Liều thường dùng trong ngày từ 12 - 20g hoa khô.

Ngày nay, khi chiết xuất các thành phần có trong hoa kim ngân, người ta tìm thấy trong đó một số các chất có lợi trong việc phòng cũng như điều trị bệnh như flavonoid, saponin và các yếu tố khác có công dụng kháng khuẩn, kháng viêm, chống khối u, làm mau liền sẹo. Đồng thời, các chất hiện diện trong cây có khả năng chống lại quá trình oxy hóa của cơ thể, ngăn chặn quá trình lão hóa cũng như có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa các căn bệnh mạn tính.

Qua một số nghiên cứu về khả năng sử dụng kim ngân hoa như một loại kháng sinh thực vật, người ta đã thấy được công dụng hiệu quả của nó đối với việc đề kháng một số vi khuẩn như: trực khuẩn lỵ, dịch hạch, thương hàn, cận thương hàn, liên cầu khuẩn tan huyết và có tác dụng yếu hơn đối với các loại vi khuẩn khác như: E.coli, phế cầu, tụ cầu vàng, bạch hầu. Ngoài ra, nó còn có khả năng ức chế một số nấm ngoài da khá hiệu quả.

Kim ngân hoa có khả năng kháng viêm, giảm xuất tiết, hạ sốt, làm thanh mát cơ thể. Người xưa thường sử dụng kim ngân pha nước uống để giải nhiệt cơ thể, làm dịu mát trong những ngày thời tiết oi bức, hay cho trẻ em sử dụng để điều trị rôm sảy, mẩn ngứa.

Bài thuốc dùng kim ngân hoa

Kim ngân hoa có tác dụng thanh thấp nhiệt ở vị tràng, dùng để chữa trị kiết lỵ, có thể phối hợp với hoàng liên, rau sam. Hay dùng để lương huyết, cầm máu bằng cách đem kim ngân hoa sao vàng sém cạnh để trị chứng tiểu tiện ra máu.

Bên cạnh đó, các nhà lâm sàng còn thấy rằng sau khi sử dụng kim ngân hoa một thời gian có tác dụng làm hạ các cholesterol không có lợi trong cơ thể, đặc biệt là thành phần cholesterol trọng lượng phân tử thấp hay còn gọi là LDL-, yếu tố này nếu tăng nhiều trong hệ tuần hoàn sẽ dẫn tới những hệ quả bất lợi cho cơ thể, là nguyên nhân gây nguy cơ cao dẫn đến các căn bệnh mạn tính thường gặp như: xơ vữa động mạch, đái tháo đường, các tai biến trên mạch máu não và tim. Đồng thời, khi sử dụng nó còn làm cho cơ thể trở nên hưng phấn hơn, tạo cảm giác dễ chịu hơn, đặc biệt là khi thời tiết nắng nóng hoặc đối với những người có cơ địa thiên về nhiệt, hay đang mệt mỏi, nóng trong người.

Những đối tượng đang mắc bệnh cao huyết áp, rối loạn chuyển hóa mỡ máu có triệu chứng nóng bứt rứt trong người, hay nặng đầu, hoa mắt, chóng mặt, khô khát, ra mồ hôi nhiều có thể sử dụng phối hợp kim ngân hoa với các vị thuốc như: cúc hoa, sơn tra, mỗi vị 10g hãm với nước sôi uống thay trà hàng ngày cũng mang lại những hiệu quả tích cực.

Bài thuốc cổ Ngân kiều tán phối hợp kim ngân hoa với một số vị thuốc khác dùng để điều trị mụn nhọt, sốt, cảm rất hiệu quả: kim ngân hoa 40g, liên kiều 40g, kinh giới 16g, cát cánh 24g, đạm đậu xị 20g, bạc hà 24g, ngưu bàng tử 24g, trúc diệp 16g.

Bài thuốc cổ Bạch hổ quế chi thang được sử dụng trong việc điều trị các bệnh về viêm khớp đang có diễn biến cấp tính, đặc biệt là viêm khớp dạng thấp, bài thuốc phối hợp vị kim ngân hoa với các vị thuốc khác như: thạch cao 40g, kim ngân hoa 20g, quế chi 6g, tri mẫu 12g, hoàng bá 12g, thương truật 8g, tang chi 12g, ngạnh mễ 12g, cam thảo 8g.

Điều trị chứng mẩn ngứa, dị ứng có thể phối hợp các vị thuốc sau: kim ngân hoa 20g, thổ phục linh 6g, quyết minh tử sao 6g, sinh địa 8g, mạch môn 8g, hoàng đằng 8g, huyền sâm 10g, liên kiều 10g.

Cũng cần lưu ý rằng, vì kim ngân có tính chất hàn nhiều nên khi sử dụng với hàm lượng cao hoặc lâu dài sẽ khiến cho tình trạng nê trệ hệ thống tiêu hóa, gây ra các triệu chứng như: ăn uống không tiêu, đầy bụng, ợ hơi hoặc nặng hơn có thể dẫn tới tình trạng tiêu phân lỏng. Các nghiên cứu hiện nay cũng cho thấy rằng, hoa kim ngân không có độc tính nên ta có thể yên tâm phần nào khi có những biểu hiện của tác dụng phụ. Nếu có xuất hiện những triệu chứng trên, người dùng hãy ngưng sử dụng hoặc giảm liều lượng trong vài ngày thì các tình trạng đó sẽ không còn nữa.

BS. NGUYỄN KỲ XU N NHỊ

Lợi ích sức khỏe của vỏ quả lựu ít người biết

1. Tăng cường sức khỏe tim

Vỏ quả lựu giúp chống lại các bệnh về tim. Với nhiều chất chống oxy hóa, vỏ quả lựu loại bỏ các gốc tự do gây hại và bảo vệ tim.

2. Vệ sinh răng miệng

Vỏ quả lựu có thể giúp tránh hơi thở hôi. Chỉ cần nghiền vỏ quả lựu thành bột, trộn với nước và chà xát vào răng bạn còn có thể phòng viêm lợi và loét miệng.

Quả lựu

3. Cải thiện sức khỏe xương

Vỏ quả lựu có đặc tính kháng khuẩn và chống viêm giúp tăng cường sức khỏe xương, đặc biệt ở phụ nữ mãn kinh. Bạn có thể uống đồ pha chế từ vỏ quả lựu để tránh loãng xương và giảm mật độ xương.

4. Chữa ho và đau họng

Bột vỏ quả lựu là bài thuốc tại nhà tuyệt vời để trị loét họng và ho khan. Cho một ít bột vỏ quả lựu vào nước và làm ấm lên. Súc miệng bằng loại nước này để giảm đau họng.

5. Chống lão hóa

Nếu bạn muốn trẻ lâu, vỏ lựu là lựa chọn tốt nhất. Nó giúp ngăn ngừa các enzym phá vỡ collagen, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng tế bào. Điều này giúp trì hoãn quá trình lão hóa.

6. Giảm nguy cơ ung thư

Vỏ lựu giàu chất chống oxy hóa nên có thể phòng ngừa ung thư. Nguy cơ ung thư da có thể giảm với sự trợ giúp của vỏ lựu. Nó cũng hoạt động như một chất chống nắng hiệu quả.

7. Khử độc

Vỏ quả lựu có tác dụng loại bỏ những độc tố tích tụ. Tác dụng này là nhờ sự hỗ trợ của các chất chống oxy hóa trong vỏ lựu.

8. Làm sạch mặt

Vỏ lựu là lựa chọn tuyệt vời giúp làm sạch mặt bằng cách chống mụn trứng cá. Phơi khô vỏ lựu, tán bột và bôi lên mặt sau khi trộn nước hoặc mật ong. Vỏ lựu chứa chất chống oxy hóa có thể giúp tránh xa vi khuẩn và các tác nhân gây nhiễm trùng khác

9. Ngăn ngừa gàu

Tán bột vỏ quả lựu, trộn với dầu dừa ấm. Bôi hỗn hợp này lên da đầu và để 15 phút. Gội đầu với nước lạnh. Bạn sẽ thấy tác dụng của hỗn hợp này.

BS Thu Vân

(Theo Boldsky)

Kinh giới chữa bệnh

Hỏi: Xin cho hỏi cây kinh giới được dùng làm thuốc chữa bệnh gì?

(Nguyễn Tiến Nam - Hà Nội)

Trả lời: Kinh giới còn gọi là kinh giới tuệ, giả to, khương giới.

Tên khoa học Schizonepeta tennifolia Briq.

Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).

Kinh giới (Herba Schizonepetae) là toàn cây kinh giới phơi hay sấy khô, gồm cả cành, củ hoa và lá. Cần chú ý ngay rằng vị kinh giới nói ở đây mới là vị kinh giới được giới thiệu trong các tài liệu cổ, trước vẫn nhập của Trung Quốc, ta chưa có. Ở nước ta nhân dân vẫn dùng một cây khác với tên kinh giới (xem phần mô tả cây này).

Mô tả cây

Kinh giới là một loại cỏ sống hàng năm, mùi rất thơm, cao 0,6 - 0,8m, thân vuông, phía gốc màu hơi tía, toàn cây có lông ngắn. Lá mọc đối, lá dưới gốc không có cuống hay gần như không có cuống, xẻ sâu thành 5 thùy, lá phía trên cũng không cuống, xẻ 3 - 5 thùy. Cụm hoa mọc thành bông gồm những hoa mọc vòng ở mỗi đốt. Bông hoa dài 3 - 5cm, hoa nhỏ màu tím nhạt. Quả hình trứng hay hình trái xoan, dài chừng 1mm, mặt bóng, màu nâu.

Cây kinh giới nhân dân ta vẫn trồng để ăn làm gia vị và làm thuốc đã được xác định là Elsholtzia cristata Willd, cùng họ. Cây cũng thuộc thảo, cao 0,3 - 0,45m, thân nhẵn, mọc thẳng đứng. Lá mọc đối, phiến lá thuôn nhọn dài 5 - 8cm, rộng 3cm, mép có răng cưa, cuống gầy dài 2 - 3cm . Hoa nhỏ không cuống, màu tím nhạt, mọc thành bông ở đầu cành rất mau. Quả gồm 4 hạch nhỏ, nhẵn, dài 0,5cm.

Một cây khác cũng được gọi là kinh giới và dùng làm thuốc là cây Origanum syriacum (Lour.) cùng họ.

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây kinh giới (Schizonepeta tenuifolia) chưa thấy mọc ở Việt Nam. Ở nước ta chỉ mới thấy trồng loại kinh giới Elsholtzia cristata để ăn và làm thuốc. Vào mùa thu nhổ cả cây phơi hay sấy khô gọi là toàn kinh giới, nhưng có nơi chỉ cắt hoa và cành, nếu xắt hoa phơi khô gọi là kinh giới tuệ, nếu hái toàn cây trừ bỏ phần rễ thì gọi là kinh giới.

Kinh giới chữa bệnh

Công dụng và liều dùng

Theo tài liệu cổ kinh giới có vị cay, tính ôn, vào 2 kinh phế và can. Có tác dụng phát biểu khứ phong, lợi yết hầu, thanh nhiệt tán ứ phá kết. Dùng chữa ngoại cảm phát sốt, đầu nhức, mắt hoa, yết hầu sưng đau, đẻ xong huyết vận. Sao đen chữa thổ huyết máu cam, đại tiểu tiện ra máu.

Kinh giới được dùng trong nhân dân làm thuốc chữa cảm mạo, phát sốt, nhức đầu cổ họng sưng đau, nôn mửa, đổ máu cam, đi lỵ ra máu, băng huyết.

Liều dùng hàng ngày là 6 -12g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.

(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)

của GS. ĐỖ TẤT LỢi

Vị thuốc từ củ riềng

Riềng là một loại gia vị phổ biến cũng như gừng, tỏi, nghệ… Có 2 loại riêng: riềng thuốc hay cao hương khương, co khá (Thái), kim sung (Dao), cho thân rễ và quả chuyên dùng làm thuốc; riềng nếp hay là loại riềng thường, được bán ngoài chợ làm gia vị, hay riềng ấm, hậu khá (Thái), chi bộ (Mông) chỉ cho thân rễ làm gia vị và đôi khi dùng làm thuốc.

Riềng thuốc được dùng trong những trường hợp sau đây:

Chữa đầy bụng, lạnh bụng, nôn mửa: riềng thuốc, củ gấu, gừng khô, với lượng bằng nhau, phơi khô, thái nhỏ, tán bột và rây mịn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g.

Chữa tiêu chảy: riềng thuốc: 6g, vỏ quế: 4g, vỏ vối: 3g. Sắc với 200ml nước, uống làm một lần trong ngày. Hoặc riềng thuốc: 20g, nụ sim: 80g, vỏ rộp ổi: 60g, tán bột, rây mịn. Uống mỗi lần 5g ngày 3 lần.

Chữa nhiễm lạnh, ăn không tiêu, buồn nôn, đau bụng: quả riềng thuốc (hồng đậu khấu) tách vỏ, lấy hạt, 2 – 6g tán nhỏ dùng uống trong ngày.

Củ riềng

Củ riềng

Riềng nếp: được chế biến thành riềng muối chống khát nước, chữa ho, viêm họng, đau răng, đầy bụng. Củ riềng tươi (loại to và già) đem cạo sạch vỏ ngoài, ướp vào dung dịch nước muối 10% (10g muối ăn pha trong 100ml nước đun sôi để nguội) trong vài ngày rồi vớt ra, giã nhỏ, phơi khô hoặc sấy khô, rồi cho riềng vào nước quả chanh tươi, ngâm khoảng 10 – 15 phút, lại đem phơi hoặc sấy. Làm như vậy chừng 3 – 4 lần là được. Riềng muối có vị chua, mặn và cay dịu. Khi dùng, lấy một dúm cắn nhẹ dưới răng, ngậm và nuốt nước dần dần. Ngày ngậm 2 – 3 lần.

Cây và củ riềng nếp

Cây và củ riềng nếp

Lấy củ riềng nếp giã (100g) tán nhỏ, ngâm với cồn 90 độ (200 ml), càng lâu càng tốt. Ngày bôi vài lần để chữ hắc lào.

Ngọc Đức

Hành giải cảm, sát trùng…

Hành - Bulbus allii Fistulosi; chứa protid, saccharides, vitamin B1, B2, PP, Bêta-caroten, Ca, Fe, Mg…, nhất là vitamin C và P. Hành còn có axít malic, dầu béo, chất dính…, trong đó chứa các allyl sulphide (dầu hành) và allicin, có mùi thơm và cay ấm, giúp khử mùi tanh, nâng vị ngon tươi, cải thiện vị giác và thúc đẩy thèm ăn. Cũng như có công năng hưng phấn thần kinh, xúc tiến máu tuần hoàn.

Những lợi ích

Hành vị cay vừa, tính ấm, có tác dụng gây ra mồ hôi, giải cảm (phát hãn, giải biểu), trừ lạnh thông thoáng các kinh âm (tán hàn, thông âm), giải độc.

Hành chứa một loại tinh dầu mang tính kích thích, sản sinh mùi thơm đặc trưng, giúp tẩy trừ mùi tanh; béo ngậy trong các món ăn, còn có thể kích thích bài tiết dịch tiêu hóa, thúc đẩy thèm ăn.

Hành chứa prostaglandin A, có tác dụng làm giãn mao mạch, thúc đẩy máu tuần hoàn, trợ giúp phòng ngừa váng đầu do tăng huyết áp gây nên. Hành còn có tác dụng đảm bảo đại não linh hoạt cũng như dự phòng Alzheimer cho người cao tuổi.

Hành có tác dụng làm mềm mạch máu, giảm mỡ trong máu, chủ yếu dùng điều trợ hỗ trợ cho xơ cứng mạch máu.

Người thường xuyên ăn hành, cho dù dáng mập vạm vỡ, nhưng cholesterol không tăng cao, hơn nữa thân thể cường tráng.

Hành chứa nguyên tố vi lượng selenium, có thể giảm hàm lượng muối nitrat trong dịch vị, vì thế, có tác dụng nhất định đối với việc dự phòng ung thư dạ dày và nhiều loại ung thư khác.

Tinh dầu thơm chứa trong hành có tác dụng sát khuẩn mạnh. Nó có thể thông qua đường mồ hôi; hô hấp; hệ tiết niệu khi bài ra ngoài gây kích thích nhẹ các tuyến bài tiết, từ đó có tác dụng làm ra mồ hôi, tan đàm, lợi tiểu.

Dùng hành chữa bệnh:

Tiểu sót: đầu hành 0,5kg thái nhuyễn, phèn chua 12g tán mịn, trộn thành dạng sệt, đắp vào vùng rốn và bụng dưới, đắp gạc và phủ lên trên tấm nylon mỏng, xung quanh dán bằng băng keo.

Báng bụng: đầu hành 10 cọng, mang tiêu 10g, giã nhuyễn, đắp vào rốn, ngày 1 lần.

Tiểu khó sau khi sinh: đầu hành vừa đủ thái nhuyễn đem rang nóng, sau đó đắp vùng bụng dưới nhanh chóng. Thường thực hiện 1 lần thấy hiệu quả ngay.

Bí tiểu: hành tươi, cả củ 1 nắm (thân và đầu hành), giã nát, sau đó bỏ thêm nước đá giã nhuyễn. Để 1 khăn ướt vắt ráo nước lên vùng bàng quang, để hành và nước đá đã giã nhuyễn lên. Sau 5 phút đi tiểu được.

Tắc ruột do giun: đầu hành 10 cọng, dầu ăn 25ml, đầu hành sau khi băm nhuyễn, cả hai trộn đều, uống ngay.

Giúp tăng nội tiết tố (hoóc-môn): đầu hành vừa đủ, ép lấy nước, ngày uống 1 - 2 lần; hoặc nhai nuốt trong miệng, sau đó nhả bỏ bã, ngày 2 lần.

Sưng vú (viêm tuyến vú cấp tính): đầu hành 30g, dùng nước rửa sạch, sau khi thái nhỏ cho ngâm trong nước nóng vừa đủ, sau khi lấy hơi xông thì dùng rửa bên vú bị sưng, ngày 3 - 5 lần, 2 ngày là 1 liệu trình, thường thực hiện 2 - 5 liệu trình sẽ thấy hiệu quả. Phương pháp này rất thích hợp dùng cho người mới bị sưng vú. Cũng có thể dùng đầu hành 0,5kg, thêm mạch nha 50g, trước tiên dùng nước rửa riêng biệt, đầu hành băm nhuyễn lấy nước, chia uống 2 lần kèm với rượu trắng; có thể dùng mạch nha thêm 400ml nước, nấu còn 300ml, dùng rửa vú sưng lúc ấm.

Món ăn - bài thuốc từ hành

Đầu hành nấu đậu hủ: đầu hành (thông bạch) 120g, đậu hủ 150g, nấu chung, nêm ít rượu và gia vị, ăn liền vài lần, có tác dụng ích khí sinh tân (tạo năng lực, tạo thể dịch); trừ táo khu hàn, dùng điều trị các chứng cảm mạo thân yếu; trẻ cảm sốt; phù thũng…

Đầu hành xào thịt heo: đầu hành 100g, thịt nạc 50g. Thịt thái lát, xào với lửa mạnh, thêm đầu hành, tiếp tục xào giây lát, nêm gia vị, ăn liền vài lần, có tác dụng nhuận phế bổ vị, ích khí phát hãn, dùng chữa các chứng phát sốt ớn lạnh, thân thể suy nhược nhiễm lạnh; đau đầu không ra mồ hôi…

Cháo hành: hành 1 bó, thái nhuyễn, gạo 50g, nấu cháo, ăn liền 3 - 5 ngày, chữa lỵ ra máu bầm.

Nước nấu hành tỏi: đầu hành 30g, thêm 100ml; tỏi 30g, thêm 200ml, hai thứ nấu riêng, bỏ bã lấy nước, trộn lẫn (hay chỉ dùng một thứ) để bơm rửa hậu môn, trẻ 4 - 6 tuổi dùng 10ml nước thuốc, 7 - 10 tuổi dùng 15ml, trên 11 tuổi dùng 20ml để chữa giun.

Hành nhuyễn: hành cả bó, vừa đủ, băm nhuyễn, trộn với dấm rang nóng, đắp tại chỗ, dùng chữa ung nhọt sưng đau.

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc thì tiêu thụ thức ăn chứa nhiều hành tỏi có thể giúp giảm đáng kể nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến. Sau khi phỏng vấn 238 người đàn ông bị ung thư tiền liệt tuyến và 471 người không bị bệnh, các nhà khoa học nhận thấy những ai ăn hơn 9g/ngày các loại rau từ nhóm hành tỏi thì nguy cơ mắc căn bệnh ung thư trên thấp hơn 50% so với những người ăn ít hơn. Riêng những ai ăn khoảng 2,9g hoặc hơn hành ascalon/ngày thì nguy cơ bị ung thư giảm 70%. Nguy cơ này giảm 53% nếu tiêu thụ một lượng tỏi tương tự.

LY.DS. BÀNG CẨM

Cây tề thái hạ sốt, cầm máu

Hỏi: Cây tề thái có ở nước ta không, nó chữa được bệnh gì? (Nguyễn Tiến Nam - Hà Nội) Trả lời: Cây tề thái còn gọi là tề, tề thái hoa, địa m...